Vịn chữ để đứng dậy- T.Vấn
Việt Nam Quê Hương Tôi đọc
Nhất sĩ, nhì nông
Hết gạo chạy rông
Nhất nông, nhì sĩ
( ca dao)
1.
“Làm văn chương như lao vào con đường quá nhiều khổ nhọc! Dấn
thân vào con đường gian truân này tôi ít quan tâm chim kêu, hoa nở, gió
mát, trăng thanh… Tôi dành chú tâm nhiều vào con người, đặc biệt tâm
tính con người! Việc này, không quan tâm không được, bởi tôi là đồng
loại. Nhiều người họ tệ lắm! Còn dưới mắt họ, tôi cũng tệ lắm! Tôi cố
tỉnh táo, khách quan, tôi tôn trọng và thận trọng, tôi xem xét và suy
tư… Văn chương đối với tôi là cuộc thám hiểm con người. Thám hiểm con
người để biết con người, tìm thấy con người và chiến đấu con người!
Sa thân chốn chữ nghĩa, tôi thường tự hỏi nhiều câu nhấn chìm mình! Và, tôi cố vùng vẫy ngoi lên.
- Con người thương quý cái gì?
- Hẳn là con người thương quý cái thiện trong con người!
- Con người sợ hãi cái gì?
- Con người sợ hãi cái ác trong con người!
- Vậy… cái ác, nó sợ hãi cái gì?
Và, trong tôi luôn vỡ ra một điều chua xót:
- Cái ác chỉ sợ hãi cái ác hơn! Cái các không sợ cái thiện!
Tôi cực kỳ căm ghét cái ác, thế nhưng nhiều khi tôi bất lực trước kẻ
ác, bởi tôi không làm ác được! Và cũng không có quyền làm ác! Trong văn
chương lại cũng thế! Nhưng, dù ở sát bờ tuyệt vọng, tôi vẫn cố gắng xây
dựng cái thiện đế làm đối trọng cái ác! Đời văn tôi quá ngắn và bé mọn,
biết chắc cái thiện dù dày công hun đúc một đời cũng khó mà đánh bại
một cái ác nhất thời nhởn nhơ! Nhưng trận chiến không khoan nhượng và
lép vế này đã giúp tôi thanh thản làm người!
Mỗi khi đặt dấu chấm dứt một truyện ngắn tôi luôn cảm thấy mình cần
phải viết lại! Bởi, cây bút tôi quá chật hẹp và bất cập trong biển đời
mênh mông gào sóng!
Bàn viết tôi trông ra cửa sổ. Lãng đãng nơi khung chữ nhật
gió lùa ấy, tôi thấy bóng quá khứ trôi qua nhiều buồn thương lẫn lộn.
Nhưng nơi ấy, tôi buộc hiện tại phải đi qua bằng lòng tin không mất của
tuổi già! Nơi ấy tôi thường ngồi lặng im, nghĩ nhiều hơn viết, nghe nước
mắt phận mình không rơi ra ngoài được, vì những đồng cảm bao người dân
quê chân lấm tay bùn. Tôi vẫn hài hước để đậy che chua xót, tôi cố bông đùa để lấp đi cay nghiệt, để tôi được sống mà nuôi khao khát… Tôi bây giờ không dám rời xa cái bàn viết bé nhỏ bề bộn bản thảo, tôi sợ mình không còn gì để vịn, những lúc cô đơn tràn ngập ngả lòng!
Sống cõi đời, có những lúc phải nín thở, nhói tim vì cái ác
diễn ra sờ sờ như thách thức mình! Xem ra, có khá nhiều kẻ đã nỗ lực
dùng trí tuệ quý nhất đời họ để phụng sự cái ác miệt mài!
Già, già rồi! Nghèo, nghèo rồi! Tôi bỏ cày, cầm bút, để chất cao thêm lo toan giữa bao lo toan chất đống! Có lẽ, tôi chưa biết cách già! Và cũng có lẽ, số phận đánh lừa tôi, để tôi trở thành số phận.
TP. Tuy Hòa, 1.8.2007. ( Ngô Phan Lưu – Chỉ là đôi điều) “.
2.
Đoản văn trích dẫn ở trên nó ám ảnh tôi từ khi tình cờ đọc
được trên một trang báo điện tử. Ám ảnh đến độ tôi không thể không viết
đôi điều . Tác giả là một cựu sinh viên đại học Văn khoa ở Sài Gòn, cựu
sĩ quan QLVNCH, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị đi cải tạo một thời
gian rồi về quê làm ruộng. Rồi ông bỏ cầy, cầm bút để viết về những
trăn trở của một người, từng là nông dân ngày ngày đổ mồ hôi trên mảnh
ruộng làm ra cơm gạo cho gia đình, cho đời. Đó là một cuộc mưu sinh khổ
nhọc. Thứ khổ nhọc ở trên tất cả mọi khổ nhọc . Vì thế mà bao thanh niên
sinh ra nơi đồng ruộng, ai cũng cố gắng để thoát ra khỏi sự khổ nhọc
đáng sợ ấy. Nhưng với một người viết văn bằng bàn tay chai sần vì cầm
cầy, cầm cuốc gần nửa đời người ấy, thì “làm văn chương như lao vào con
đường quá nhiều khổ nhọc “. Tại sao nó khổ nhọc như vậy, mà gần cuối đời
rồi, ông vẫn cứ lao vào , chỉ để “chất cao thêm lo toan giữa bao lo toan chất đống ” hay sao ? Tại sao, ông bỏ cuộc khổ nhọc (tay cầy) chỉ để vác lên vai một khổ nhọc khác ( tay viết ), dù đó là khổ nhọc để
mưu sinh ? Hình như tôi tìm thấy đầu mối ở đôi lời ông bộc bạch “Dấn
thân vào con đường ( văn chương) gian truân này tôi ít quan tâm chim
kêu, hoa nở, gió mát, trăng thanh… Tôi dành chú tâm nhiều vào con người,
đặc biệt tâm tính con người! Việc này, không quan tâm không được, bởi
tôi là đồng loại. ”
Chữ nghĩa là con người cùng với những hệ lụy cố gắng làm một
con người cho ra con người. Bấy nhiêu chưa đủ, còn phải chiến đấu hàng
ngày với những điều ác, thứ nước cường toan làm bộ mặt con người biến
dạng, trở nên xấu xí và hèn mọn. Nếu không, chữ nghĩa sẽ không có một chút giá trị gì giữa cuộc sống có quá nhiều điều thừa thãi.
Có lẽ vì thế mà cuộc chơi văn chương khổ nhọc hơn cuộc mưu sinh hàng ngày để tồn tại chăng ?
3.
Từ những trăn trở của một người nông dân cầm bút ở Việt Nam, tôi nhìn lại chính mình. Cũng như ông, rất nhiều khi tôi đã vịn chữ nghĩa mà đứng dậy. Rất nhiều khi, tôi đã tự an ủi mình rằng, mình không bất nhân với chữ nghĩa, thì chẳng có con chữ nào nỡ phủi tay bỏ mặc, những khi mình cần chúng nhất. Bội bạc vốn là một thuộc tính của con người, không phải của con chữ.
Mỗi khi tôi ngồi xuống, đối diện màn hình trắng lóa, tôi luôn nhủ lòng
mình rằng, nếu người nông dân đổ mồ hôi trên mảnh ruộng là để tạo ra cơm
gạo cho đời thì người cầm bút, rỉ tâm tư của mình trên mỗi đầu ngón tay
, cũng phải tạo ra được chút gì cho đời, hay nói như ông nhà văn nông
dân , ít nhất cũng “cố gắng xây dựng cái thiện đế làm đối trọng cái ác ”
. Nếu không, thế giới này sẽ mất cân bằng. Và khi ấy, cái ác sẽ chỉ
biết sợ cái ác . . . hơn. Những tội ác, những kẻ sát nhân, những điều
trá ngụy, những áp bức, trù dập, những bất công, những chà đạp công lý.
Nếu người sử dụng chữ nghĩa không nói lên, không kêu gào,
không bộc bạch, thì ai sẽ là người làm việc đó ? nạn nhân ư ? họ không
có cơ hội, thậm chí không còn sống để tố cáo. Thủ phạm ư ? chắc chúng
cũng chỉ nói lên những điều giả nhân giả nghĩa nhằm biện minh cho tội ác
của mình. Chúng ta đang sống trong một thời còn nhiễu nhương hơn cả
những ngày nhiễu nhương năm xưa chốn quê nhà . Khi ấy, còn có chiến
tuyến hẳn hòi, khi ấy còn có bên địch bên ta mặc hai màu áo khác nhau.
Bây giờ, có nhiều nhà tu hành đeo dao bên người sẵn sàng làm đồ tể, còn
những tay đồ tể chuyên nghiệp lại lên đường hành hương tìm những nguồn
suối nhiệm màu hòng rửa sạch vết máu của một quá khứ thù hận. Và chính chữ
nghĩa, đôi khi cũng bất lực như nhà văn ngồi “lặng im, nghĩ nhiều hơn
viết, nghe nước mắt phận mình không rơi ra ngoài được, vì những đồng cảm
bao người dân quê chân lấm tay bùn. “
Nhớ những năm xưa bị lưu đầy ngay chính trên quê hương
của mình. Ngày nắng cũng như ngày mưa, ngày đông lạnh buốt cũng như ngày
hè nắng bỏng da, trên những mảnh ruộng bậc thang nhỏ bằng bàn tay của
trại cải tạo Vĩnh Quang miền trung du Bắc Việt, tôi hò hét khản cổ con
trâu già sứt môi , bắt nó lê từng bước mệt mỏi kéo chiếc cày cũ kỹ dường
như có trọng lượng nặng hơn cả tấm thân xác chưa tới 40 kí lô thịt hơi
của mình. Tội nghiệp con trâu già thiếu cỏ để gặm. Tội nghiệp cái thằng
người hàng ngày thất thểu đi theo nó. Cái thằng người mà thân xác thì
nhẹ nhưng cái đầu thì nặng vì chứa đầy không biết bao nhiêu những thứ ”
thức ăn hàm thụ “. Đã có lúc thằng người ấy ngã gục trên đám bùn nhầy
nhụa phân xanh, phân chuồng, nhưng nó đã vịn cầy để đứng
dậy. Nhưng cũng có lúc quá kiệt sức, thằng người đã sẩy ta đánh rơi cái
cầy nhọn hoắt trên chính bàn chân của mình. Máu chảy đầm đìa loang đỏ cả
một mảnh ruộng , vậy mà cái đau ngày ấy chưa hẳn đã đau hơn cái nhức
buốt ngày hôm nay khi bị những con chữ đâm thẳng vào tim.
Mấy mươi năm đã qua đi. Con trâu già sứt môi bây giờ hẳn đã
biến mất trong những cái dạ dày thiếu thịt hàng thế kỷ. Thằng người tội
nghiệp năm xưa nay vẫn sống kiếp lưu đầy, nhưng không phải trên mảnh quê
hương nghèo khổ của mình nữa, mà là miền đất trù phú xứ người. Chiếc
cày thô sơ nặng chình chịch ngày ấy nay hẳn đã bị quên lãng trong một xó
xỉnh nào đó của căn nhà kho tồi tàn như chính cái chế độ sản sinh ra
nó. Dẫu sao, tôi đã từng vịn nó để đứng dậy.
Như bây giờ có một người viết văn ở Việt Nam đã từng vịn chữ để đứng dậy.
4.
Chữ nghĩa còn là nhân chứng của mọi thời đại. Các thế hệ mai sau, biết được những gì xảy ra hôm nay, qua chữ nghĩa. Cũng như chúng ta, hôm nay, nhìn lại nhiều thế kỷ trước cũng qua những gì chữ nghĩa
ghi lại. Nếu là một người viết lương thiện, lịch sử sẽ là lịch sử như
nó vốn là. Nếu người viết bẻ cong ngòi bút dù vì bất cứ lý do gì, chúng
ta có một lịch sử bị nhào nắn theo ý đồ người viết, theo ý đồ của những
kẻ có quyền năng sai khiến người viết. Vì thế, làm một người viết trung
thực, có trách nhiệm, như ông nhà văn nông dân hiện còn sống ở trong
nước, là một cuộc khổ nạn cho sự cứu rỗi cuối cùng của chân lý. Thứ chân
lý sẽ chiếu sáng mãi mãi cho nhiều thế hệ mai sau, thứ chân lý đóng vai
trò người chứng can trường, chỉ nói những gì mình thấy, nghe, cảm, và
cũng là thứ chân lý đem đến bao khó nhọc cho đời sống, cho người cưu
mang nó. Sự khó nhọc luôn làm “nín thở, nhói tim “. Cái tâm ấy của người
viết sẽ hòa cùng bản thể vạn vật để tạo nên một thế giới xứng đáng với tầm vóc con người, xứng đáng với những gì con người tạo dựng, trong đó có chữ nghĩa và những giọt mồ hôi khổ nhọc của những người ” khéo dư nước mắt khóc người ngàn xưa “.
Âu cũng là một cách thế để tồn tại cùng với đời sống,
dẫu có phải rỉ máu ngón tay hằng đêm trước màn hình trắng lóa ( của máy
điện toán ) và cuộc tra vấn không ngừng về ý nghĩa thiết thực của những
hàng chữ đang nhẩy múa như điên như cuồng.
Nếu không khổ nhọc như thế, chữ nghĩa, sáng tạo đầy kiêu hãnh
của nhân loại sẽ chẳng đáng giá một xu khi được đặt cạnh chiếc cày nằm
mệt mỏi trên thửa ruộng đất vừa mới vỡ.
© T.Vấn 2008