“Đi lính” là một thuật ngữ xuất hiện thường xuyên trên đầu môi cũng như trong tâm thức của mọi người. Bậc cha mẹ lo lắng khi con cái đến tuổi “quân dịch” còn thanh niên thì đứng trước một ngã rẽ quan trọng của cuộc đời: “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Mối lo của họ được thể hiện qua ám ảnh “Thi rớt tú tài…” và còn bi đát hơn với hai câu thơ:
Rớt
tú tài anh đi trung sĩ,
Em
ở nhà lấy Mỹ cho xong…
Nhạc phẩm Thà như
giọt mưa (http://my.opera.com/diemxuacafe/blog/show.dml/2536756)
với tiếng hát Ngọc Lan cũng nói về chuyện “thi hỏng tú tài” và kết quả là phải “đợi ngày đi lính”. Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên viết một bài
thơ này cho một người con gái tên Duyên, sinh viên trường Luật, và
người yêu… “lạc đệ tú tài”.
Nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc để biến thành một bản nhạc buồn man
mác:
Người
từ trăm năm về qua trường Luật
người
từ trăm năm về qua trường Luật
ta
hỏng Tú Tài ta hụt tình yêu
thi
hỏng mất rồi ta đợi ngày đi
đau
lòng ta muốn khóc
đau
lòng ta muốn khóc
Thời nào cũng vậy, những thành phần COCC (chữ tắt
của cụm từ Con Ông Cháu Cha), bao
giờ cũng có cách luồn lách để khỏi đi lính. Người Sài Gòn thường
dùng chữ “trốn lính” hay “trốn quân dịch”. Một trong những
cách “trốn lính” là tìm đường
cho các “quý tử” đi du học, hay
cùng lắm, khi bị “bắt lính” các
bậc cha mẹ lo “chạy” để con được
phục vụ trong các đơn vị không tác chiến, làm “lính văn phòng” hay còn một thuật ngữ rất phổ biến là “lính kiểng”. Người ta thường chưng
hoa kiểng, cây kiểng để làm đẹp căn nhà nhưng “lính kiểng” lại chính là một hình thức “tự làm đẹp đời mình” trước những
viễn cảnh u ám của chiến tranh, bom đạn, chết chóc vẫn xảy ra hàng
ngày.
Đôi khi loại “lính
kiểng” còn được gọi qua cái tên nghe khá ngộ nghĩnh nhưng cũng rất
thâm thúy: “lính cậu”. Chả là
thứ lính này xuất thân từ những “cậu
ấm” trong các gia đình quyền thế hoặc giàu có. Đây là loại “lính
nhưng không phải là lính” nếu đem so sánh với những chiến binh
ngày đêm phải đương đầu với súng đạn tại những tiền đồn heo hút hay
rừng sâu núi thẳm, cách biệt hẳn với chốn phồn hoa đô hội. Xem ra câu
“huynh đệ chi binh” không phải lúc
nào cũng đúng như ý nghĩa vốn có của nó.
Hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam, kẻ trước người sau, đều
lần lượt rời ghế học trò để khoác trên mình bộ quần áo lính. Đó
có thể là sắc áo “rằn ri” của
các binh chủng dữ dằn như Nhảy dù (được “thần
tượng hóa” thành “thiên thần mũ
đỏ”). Lực lượng đặc biệt, Biệt cách dù (Airborne Ranger, Liên đoàn 81 Biệt cách dù trong trận chiến An Lộc đã nổi tiếng
với 2 câu thơ: "An Lộc địa, sử ghi chiến tích. Biệt Cách Dù vị quốc
vong thân) hay Thủy quân lục
chiến đội trên đầu chiếc mũ “mũ
be-rê xanh” còn Biệt động quân
thì lại chọn màu mũ nâu.
Tuy nhiên, mũ be-rê chỉ dùng khi về phép và các dịp
đặc biệt, khi ra trận mọi quân binh chủng đều đội chiếc “mũ sắt” phía bên trong có lót lớp
“nũ nhựa” để bảo vệ phần đầu.
Trên nguyên tắc là vậy chứ nhiều khi đạn có thể xuyên thủng “mũ sắt” nếu bắn từ khoảng cách
gần.
Khẩu súng, chiếc nón sắt và đôi giày trận
Lính bộ binh thì “hiền”
hơn với bộ kaki, sau này được thay thế bằng bộ quân phục “bốn túi”, áo bỏ ngoài quần, giống
như lính Mỹ. Đặc điểm của bộ binh là phải “gom ống quần” trong khi Không quân và Hải quân được thả ống
quần, “lè phè”, thoải mái. Cũng
vì thế lính không quân và hải quân sợ nhất là bị “gom ống quần lội bộ”, thuật ngữ ám chỉ bị thuyên chuyển
sang bộ binh để đi tác chiến.
“Giày trận”
được gọi là “bốt đờ sô” (botte
de saut), có loại hoàn toàn bằng da nhưng sau này có loại giày kết
hợp giữa da và vải, rất nhẹ trong những chuyến lội rừng, băng suối.
Lính “địa phương quân” hay “nghĩa quân” thì hẩm hiu hơn với
những đôi giày bằng vải bố, được gọi tắt là “giày bố”, kiểu như giày “ba-ta”
nhưng cổ cao hơn giày thường.
Ngay khi bắt đầu trình diện tại các Trung tâm Tuyển mộ Nhập ngũ, thanh
niên dù “đăng lính” hay bị “bắt lính” cũng đều phải qua một
trong những thủ tục là làm “thẻ
bài”. Tấm “thẻ bài” là vật
bất ly thân, được đeo trên cổ trong suốt thời gian tại ngũ của quân
nhân. “Thẻ bài” tựa như tấm lắc
đeo ở cổ con chó nên người Mỹ gọi nó bằng cái tên… “dog tag”!
Mỗi quân nhân bắt buộc có 2 tấm “thẻ bài” bằng kim loại không rỉ, được đeo bằng sợi dây
cũng bằng kim loại. Trên mỗi tấm có ghi họ tên, “số quân” và loại máu để khi bị thương, cần tiếp máu, quân
y biết ngay loại máu gì. Khi người chiến sĩ tử trận, một tấm thẻ
bài được bỏ trong miệng tử sĩ và tấm kia đơn vị sẽ giữ lại để làm
tài liệu báo cáo.
Tấm thẻ bài
Hình trên là tấm thẻ bài của tướng Nguyễn Văn Điềm,
“số quân” 50/200.102, ông thuộc
loại máu A. (Người anh em ở bên kia chiến tuyến dùng từ “số lính” thay cho “số quân”). Hai số đầu của “số quân” là năm sinh sau khi trừ 20.
Như vậy, tướng Điềm sinh năm 1930 (50 – 20 = 30). Tôi sinh năm 1946 nên có
hai số đầu là 66: 66/168.566. “Số quân” của người lính tựa như “số an sinh xã hội” (social security number của Mỹ gồm 9
số), số “căn cước” (thời VNCH)
hay chứng minh nhân dân (thời CHXHCNVN).
Thẻ Căn Cước thời VNCH (mặt trước)
Thẻ Căn Cước thời VNCH (mặt sau)
Bài hát “Tấm Thẻ Bài”
(http://www.youtube.com/watch?v=UDuscC0xDec) qua tiếng hát “liêu trai” của Thanh Thúy đã gây nhiều xúc động trong lòng người
nghe và mãi đến bây giờ, mỗi lần được nghe lại bài hát nầy hoặc là nhìn thấy
lại hình tấm thẻ bài chúng ta càng thấy ngậm ngùi và thương tiếc những chiến sĩ
đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Nhạc sĩ Huyền Anh đã viết những câu
thật xúc động:
Sau
cuộc chiến này còn chi không anh?
Còn chi không anh?
Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài
Đã mờ mờ mang tên anh.
Còn chi không anh?
Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài
Đã mờ mờ mang tên anh.
….
Anh
đã đi, đã đi vào vùng biển đời người
Anh ngủ yên, ngủ yên như cỏ úa
Anh ơi sau cuộc chiến này
Có còn chi để lại
Hay chỉ còn tấm thẻ bài mang tên anh
Anh ngủ yên, ngủ yên như cỏ úa
Anh ơi sau cuộc chiến này
Có còn chi để lại
Hay chỉ còn tấm thẻ bài mang tên anh
Trong số các món quân trang, quân dụng được cấp phát,
ngoài chiếc balô người lính còn
có poncho là một tấm vải mưa
trùm đầu theo kiểu vải khoác của người Nam Mỹ. Poncho lại còn có một công dụng mà bất cứ người lính nào
cũng chẳng muốn sử dụng: poncho
sẽ được dùng để khâm liệm xác của tử sĩ bỏ mình trên chiến
trường.
Bài hát Kỷ vật cho
em (http://www.youtube.com/watch?v=yL65W5oupwA)
với giọng ca Elvis Phương có một đoạn rất bi thương:
Em
hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!
Bài hát này do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ Để trả lời một câu hỏi của Linh Phương.
Ca khúc ra đời vào năm 1970, trong thời kỳ cuộc chiến tranh Việt Nam đang leo
thang và trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất tại miền Nam. Đã có
một thời, bản nhạc bị chính quyền cấm đoán vì làm “nản lòng chiến sĩ” đồng thời “băng hoại hàng ngũ quân đội” dù Phạm
Duy đã cố gắng sửa câu “Không về bằng
chiến thắng Pleime” của Linh Phương thành “Có thể bằng chiến thắng Pleime”.
Lời bài hát rất thật nhưng cũng không kém phần bi
lụy với những ngôn từ như “anh trở
về, có khi là hòm gỗ cài hoa, anh trở về bằng chiếc băng ca, trên trực thăng
sơn màu tang trắng”… “anh trở về trên
đôi nạng gỗ, anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân. Em ngại ngùng dạo phố
mùa xuân bên người yêu tật nguyền chai đá” và… “anh trở về nhìn nhau xa lạ, anh trở về dang dở đời em, ta nhìn nhau ánh
mắt chưa quen, cố quên đi một lần trăn trối”.
Thi thể những tử sĩ được chùm poncho
chờ trực thăng đưa về hậu cứ
Không phải bài hát nào về lính cũng nhuộm màu bi
quan như Kỷ vật cho em. Chúng ta
còn vô số bài với nhịp điệu vui tươi và ngôn từ nhí nhảnh như bài Tình thư của lính do Trần Thiện
Thanh sáng tác.
Thư
của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em.
Thư
của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình.
Thư
của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay.
Nhưng
thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy.
Và kết thúc lá thư với một câu thật dễ thương:
Thư
của lính, thư không được dài như mong ước đâu em.
Thư
của lính chấm dứt ở đây, sau khi đề thêm hai chữ "Hôn em..."
(Xem video này được các diễn viên trẻ trình diễn trên
sân khấu hải ngoại http://www.youtube.com/watch?v=b1kHk7ZW5VM
).
Sau năm 1975, Thư của
lính vẫn còn xuất hiện. Lang thang trên mạng tôi bắt gặp bài hát
được hòa âm và làm clip với lời dẫn: “Tặng các chiến sĩ quân đội Việt Nam” (ý muốn nói Quân đội Nhân dân Việt Nam). Bản
nhạc của Trần Thiện Thanh đã được sửa ngay từ câu đầu “Từ
khi anh thôi học và từ khi anh khoác áo treilli” thành “Từ khi anh thôi học và từ khi anh khoác
áo lính ra đi” và cứ như thế, lời và âm điệu của bài hát được
“biên tập” theo dạng karaoke… Xin mời vào xem tại:
Sau khi so sánh hình ảnh thể hiện trong 2 clip mang
cùng tên Tình thư của lính,
người ta nhận thấy ngay chân dung của hai người lính và ngộ ra một
điều thật đơn giản: trong đánh nhau không phải cứ to xác là thắng theo
kiểu “mạnh được yếu thua”, trái
lại việc thắng-bại còn được quyết định qua nhiều yếu tố khác nữa.
Truyện David & Goliath là một
thí dụ điển hình.
Thủy quân lục chiến tái chiếm Huế sau Tết Mậu Thân 1968
Tổng Thống Mỹ, John F. Kennedy, trong diễn văn nhậm chức
năm 1961 đã từng tuyên bố: “Đừng hỏi
tổ quốc có thể làm gì cho bạn, hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc” (Ask
not what your country can do for you — ask what you can do for your country).
Đối với người lính bình thường, họ không bao giờ có những ý nghĩ
cao xa, lý tưởng như ông Kennedy mà chỉ đơn thuần làm theo những yêu
cầu của tình hình chính trị tại miền Nam khi đó.
“Trốn lính” là
chấp nhận sống bên lề xã hội, “trốn
chui trốn nhủi” khi thấy bóng dáng cảnh sát, quân cảnh. Cuộc sống
của người trốn quân dịch là những chuỗi ngày bấp bênh, không tương lai
ngay giữa Sài Gòn đô hội. Cũng vì thế, có người tự chặt “ngón tay bóp cò” (ngón trỏ) để
khỏi đi lính, có người “tự hành
xác”, “ốm tong ốm teo” để
được các trung tâm nhập ngũ trả về vì “không đủ sức khỏe”.
Cảnh bắt thanh niên trốn quân dịch tại Sài Gòn
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã một thời “trốn lính” để không một ngày nào
phải khoác áo treilli. Với thân
hình khẳng khiu, ốm yếu, anh đã ung dung ngồi tại nhà để viết nhạc,
trong đó có cả những bài “phản
chiến”. Có người bảo TCS đã “đâm
sau lưng chiến sĩ”. Người ta đồn TCS còn nhận được sự che chở của
Chuẩn tướng Lưu Kim Cương, tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân (Lưu Kim Cương đã
tử trận vì trúng đạn B-40 của VC, trong khi đang đi trên xe Jeep điều quân
giải vây vành đai phi trường Tân Sơn Nhất ngay sau Tết Mậu Thân 1968). Cái chết
của Lưu Kim Cương là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ TCS sáng tác nhạc phẩm Cho một người nằm xuống:
Anh
nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai từng ngày
Không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi mùa mưa tới
Trong nghĩa trang này có loài chim thôi.
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai từng ngày
Không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi mùa mưa tới
Trong nghĩa trang này có loài chim thôi.
Nhà văn Thế Phong
trong Hồi ký ngoài văn chương phát hành tại Westmington ghi lại
chuyện giữa TCS và Lưu Kim Cương: “Buổi đưa tiễn [Lưu Kim Cương]
đến nơi an nghỉ cuối cùng có rất đông nghệ sĩ từng giao du yêu mến chàng. Bài
nhạc “Anh nằm xuống” [bài hát chính thức có tựa đề “Cho một người nằm xuống” chứ không phải là “Anh nằm xuống” - chú thích
của NNC] của Trịnh Công Sơn là một ví dụ.
Nhưng bữa nay không thấy mặt Sơn, buổi sinh thời Sơn giao du với Cương, được
Cương yêu mến, nên Cương đề nghị với Tướng Tư Lệnh đưa Sơn vào lính không quân
để cho qua cơn binh đao nội chiến. Tư lệnh trả lời Cương, hình như điệu nhạc
phản chiến của Sơn không hợp với binh chủng này, nếu nhận làm nhạc công như
nhiều nhạc sĩ khác như Duy Quang, Nguyễn Trung Cang, Trí khùng... chưa chắc Sơn
đã làm công việc này hoàn hảo, nên tướng chối từ”.
Đã có rất nhiều văn nghệ sĩ khoác áo kaki. Làng tân
nhạc ngày xưa có 4 nam ca sĩ hàng đầu mà người ta thường gọi là “tứ trụ”: Duy Khánh (1938-2003), Hùng
Cường (1935-1998), Nhật Trường (1942-2005) và Chế Linh. Duy Khánh thường hát
với Thanh Thúy, Chế Linh đi đôi với Thanh Tuyền, Nhật Trường rất ăn ý với Thanh
Lan và Hùng Cường hát chung với Mai Lệ Huyền. Họ thường lên sân khấu với
bộ đồ treilli để hát những ca khúc về lính trong khi các nữ ca sĩ
đóng vai… “em gái hậu phương”.
Tùy theo định kiến của người xem nên có nhiều người “thương” nhưng cũng không ít kẻ “ghét” những hoạt cảnh về lính trên
sân khấu.
Ca sĩ Nhật Trường, chính là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh,
tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan năm 1965, phục vụ tại Cục tâm lý chiến thuộc Bộ
tổng tham mưu từ năm 1965 cho đến ngày Sài Gòn đổi chủ. Nhật Trường
đã từng làm việc tại Ðài phát thanh
Sài Gòn và sau đó là Truyền hình Quân Ðội, từng là Trưởng ban văn nghệ của Đài và đến năm
1968 anh còn phụ trách thêm chương trình phóng
sự chiến trường. Năm 1993, Nhật Trường sang Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ gia
đình (ODP) và qua đời vào ngày 13/5/2005 tại thành phố Westminster, Quận Cam, do bệnh ung thư phổi.
Trong số khoảng 200 bài hát Nhật Trường Trần Thiện
Thanh sáng tác thì có đến hơn nửa về lính. Điển hình là: Anh không chết đâu anh (vinh danh Đại úy
“Mũ đỏ” Nguyễn Văn Đương), Người ở lại Charlie (vinh danh Đại tá
Nguyễn Ðình Bảo), Rừng lá thấp (viết
tặng Đại Úy Vũ Mạnh Hùng, tử trận trên cầu Thị Nghè), Tuyết trắng (viết về Không quân), Hoa biển (viết về Hải quân), Biển mặn (kể lại
cuộc đời quân ngũ của chính tác giả), Người yêu của lính, Màu mũ anh, màu áo em…
Nhật Trường - Trần Thiện Thanh
Hùng Cường (1935-1998) là một ca sĩ, nghệ sĩ cải lương,
diễn viên điện ảnh và diễn viên kịch nổi tiếng từ thập niên 1950 tại Sài Gòn.
Thập niên 1960, Hùng Cường cùng Mai Lệ Huyền chuyển sang thể loại “nhạc kích động” theo các điệu nhanh
như Twist, Bebop… gây nên một không khí mới mẻ trong nền âm nhạc thời đó. Hùng
Cường tình nguyện vào binh chủng Biệt
động quân với cấp bậc Hạ sĩ đóng tại trại Đào Bá Phước. Chàng
ca sĩ thuộc loại “lính văn phòng”
đóng tại Sài Gòn để còn thì giờ đi hát tại các vũ trường, đại nhạc hội và đóng phim.
Hùng Cường sở hữu giọng hát “ténor” và thành công với các bản nhạc như Dù Hoa Lạc Lối, Đám Cưới Nhà Binh, Một Trăm Phần
Trăm, Lính mà em, Làm quen với lính… Từ những khán
giả hâm mộ giọng ca Hùng Cường những phim anh đóng cũng được người xem
chú ý như: Chân Trời Tím, Mãnh Lực Đồng Tiền, Còn Gì Cho Nhau… Trong lãnh vực cải lương, Hùng Cường hát chung
với Bạch Tuyết tạo thành một “cặp
bài trùng” trên sân khấu với các vở tuồng nổi tiếng một thời như
Má hồng phận bạc, Tình chú Thoòng…
Như đã nói, một nghệ sĩ được gọi là thành công khi
có người hâm mộ nhưng cũng không thể nào tránh khỏi sự “dị ứng” của những người thuộc
nhóm… “không ưa”, trong đó có cả
những người lính.
Hùng Cường & Mai Lệ Huyền: “Lính Mà Em”
Ca sĩ Duy Khánh (1936-2003), người gốc Quảng Trị, nổi
danh từ thập niên 1960 với dòng nhạc dân ca, nhạc quê hương và nhạc
lính. Ông còn được biết đến như một
nhạc sĩ tài năng với hơn 30 ca khúc, nổi tiếng phải kể đến Thương về miền Trung,
Lối về đất mẹ, Ai ra xứ Huế, Xin anh giữ trọn tình quê...
Duy Khánh là một người lính ngành Chiến tranh Chính trị nhưng đồng thời cũng là một ca sĩ “đào hoa”, ăn mặc rất đúng mốt và lịch
lãm. Nhờ thân hình cao lớn và cân đối, nên thứ gì khoác vào người (nhất là
những bộ đồ lính) giúp chàng ca sĩ “hớp
hồn” các fan hâm mộ, nhất là phái yếu. Áo may ở La Ligne, quần ở Văn Quân,
giày đóng ở Trinh đó là những địa
chỉ “thời thượng” ở Sài Gòn
ngày xưa.
Sau 1975, Duy Khánh ở lại Sài Gòn và đến năm 1988
được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, tại đây ông tiếp tục ca hát và sáng tác. Duy Khánh
mất vào ngày 12/2/2003 tại bệnh viện Fountain
Valley, California,
thọ 68 tuổi. Giọng hát Duy Khánh có người rất thích nhưng cũng có
người lại chê là “nhạc sến”.
Tại Hoa Kỳ, “giọng ca một thời”
Duy Khánh hát Người lính già xa quê
hương của Nhật Ngân. Như đã nói, “hay”
hay “dở” còn tùy người nghe, xin
mời vào Youtube để thưởng thức: http://www.youtube.com/watch?v=l5N89SbsAf4
Duy Khánh
“Tứ trụ” của
sân khấu ca nhạc Sài Gòn ngày xưa hiện nay chỉ còn lại Chế Linh. Anh
cũng là ca sĩ gây nhiều tranh cãi nhất trong vấn đề “yêu” hay “ghét”, “sến” hay “không sến”. Chế Linh là người gốc
Chàm ở Phan Rang, tương tự như trường hợp của nhạc sĩ Từ Công Phụng.
Có thể nói, hai văn nghệ sĩ này tượng trưng cho hai “trường phái”, hai “thái cực”: “hâm mộ” người này thì sẽ “dị
ứng” với người kia.
Chế Linh có thiên hướng hát về nhạc chiến tranh ca tụng
người lính VNCH dù anh không phải nhập ngũ vì thuộc thành phần “dân tộc thiểu số”. Những bài hát nổi
tiếng nhất phải kể đến: Đêm nguyện cầu,
Thành phố buồn, Thói đời, Thương hận, Trong tầm mắt đời, Đêm buồn tỉnh lẻ, Áo em chưa
mặc một lần...
Chế Linh ở lại Sài Gòn sau năm 1975. Năm 1976-1978, anh
bị bắt vì “vượt biên trái phép” và
tội “phản động”, biệt giam 28 tháng.
Năm 1980, anh vượt biên thành công sang Mã Lai, sau đó định cư tại Toronto, Canada.
Ngoài việc là một trong những giọng ca nam hát “nhạc vàng” được yêu thích nhất, Chế Linh còn nổi tiếng là người có
nhiều vợ con, tính cho đến tháng 1/2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con!
Có một thời, ở Sài Gòn, người ta bàn tán cái tên
Chế Linh theo kiểu “nói lái” sẽ
trở thành… “Lính chê”! Theo lời
giải thích của Chế Linh, đó cũng là điều dễ hiểu vì anh được “miễn dịch” với lý do “dân tộc thiểu số” nên quân đội “chê”. Một số người lại hiểu theo
nghĩa khác, họ nói những bài hát về lính của anh lại bị… “lính chê”. Rõ ràng đây là quan điểm
của những người lính không thích những bài anh hát về họ.
Một lần nữa, vấn đề “nhạc sến” lại được đặt ra. Chủ đề “sến” sẽ được bàn đến ở một entry khác trong loạt bài Ngôn ngữ Sài Gòn xưa.
Chế Linh và nhạc sĩ Châu Kỳ tại Sài Gòn
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire